XÃ HỘI KHÔN NGOAN BIẾT KHAI THÁC TỐT TÀI NGUYÊN TINH THẦN.
20.02.2010 20:17
Lâu nay vấn đề tài nguyên tinh thần vốn ít được bàn đến một cách bài bản, cũng chưa có một chiến lược khai thác và phát huy tổng thể nào được đặt ra. Tuy nhiên những người tâm huyết với các giá trị văn hóa dân tộc vẫn lặng lẽ làm. Nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến, Giám đốc Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây chia sẻ vài suy nghĩ với Tuần Việt Nam trong những ngày đầu năm . http://ngay-dem.com , Trân trọng giới thiệu nguyên bản bài phỏng vấn nhà văn- dịch giả Đoàn Tử Huyến.
Nhà văn-Dịch giả Đoàn Tử Huyến.
Hoàng Hường (thực hiện )
Xã hội khôn ngoan, sáng suốt,
nhân văn thì biết bảo tồn, nâng niu, khai thác triệt để nguồn tài nguyên vô giá
của dân tộc mình và của cả nhân loại để làm giàu cho tâm hồn và cuộc sống của
mình. Nếu không, thì mỗi con người, thậm chí là cả dân tộc chỉ tồn tại vơ váo
đứt đoạn trên thế gian này.
Lâu nay vấn đề tài nguyên
tinh thần vốn ít được bàn đến một cách bài bản, cũng chưa có một chiến lược
khai thác và phát huy tổng thể nào được đặt ra. Tuy nhiên những người tâm huyết
với các giá trị văn hóa dân tộc vẫn lặng lẽ làm. Nhà văn - dịch giả Đoàn Tử
Huyến, Giám đốc Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây chia sẻ vài suy nghĩ với
Tuần Việt Namtrong những ngày đầu năm.
Tài nguyên tinh thần - giá
trị không bao giờ cạn kiệt
- Khi nói đến tài nguyên, người ta
thường liên tưởng ngay đến rừng, đến biển, đến khoáng sản và tiềm năng khai
thác..., tóm lại là những thứ vật chất có thể cân đo được. Nhưng còn một giá
trị khác là tài nguyên tinh thần có vẻ như vẫn chưa được đề cập đến, hoặc chưa
được đánh giá đúng, và chưa được khai thác đầy đủ. Ông nghĩ sao?
Đúng thế. Thậm chí hình như trong các
Từ điển tiếng Việt cũng chưa có khái niệm "tài nguyên tinh thần";
định nghĩa "tài nguyên" thường gắn với các loại của cải tự nhiên
(chưa hoặc đang được khai thác). Tôi hiểu nôm na, "tài nguyên tinh
thần" là nguồn vốn tinh thần do tiền nhân làm ra (chứ không phải tự nhiên
có) để ta có thể khai thác, tạo ra các giá trị (cả tinh thần và vật chất) khác.
Điều đặc biệt đáng quý là nguồn của cải tinh thần này khi được khai thác không
hề bị cạn kiệt như tài nguyên thiên nhiên, mà ngày càng trở nên được bồi đắp,
giàu có. Các giá trị tinh thần chỉ có thể bị (từng cá nhân, thậm chí cả thời
đại) chối từ, vùi lấp, bị chà đạp, lãng quên, hoặc không được đánh giá, khai
thác đúng mà thôi.
Về nguyên lý chung, xưa nay mọi người đều công nhận tài nguyên tinh thần là tài
sản vô giá của mỗi xứ sở, mỗi dân tộc, mỗi con người; vấn đề là đối xử và khai
thác cụ thể các nguồn tài nguyên đó như thế nào. Xã hội khôn ngoan, sáng suốt,
nhân văn thì biết bảo tồn, nâng niu, khai thác triệt để nguồn tài nguyên vô giá
của dân tộc mình, và của cả nhân loại, để làm giàu cho tâm hồn và cuộc sống của
mình. Nếu không, thì mỗi con người, thậm chí là cả dân tộc, chỉ tồn tại vơ váo
đứt đoạn trên thế gian này.
- Các di sản, các giá trị
văn hóa, văn học nghệ thuật là những tài nguyên tinh thần vô giá của con người,
của dân tộc. Ông đánh giá như thế nào về công việc bảo tồn, khai thác, quảng bá
các giá trị đó của chúng ta?
Không chối cãi rằng chúng ta đã làm
được, thậm chí làm ấn tượng một số việc ở lĩnh vực này. Tuy nhiên, cần thẳng
thắn nhìn nhận rằng trong thực tế hiện nay chúng ta vẫn chưa có được sự
đối xử đúng với nguồn tài nguyên tinh thần của chúng ta, chúng ta có thể được
hưởng. Sòng phẳng hơn mà nói, chúng ta chỉ mới đúng ở lời nói, trên
"nguyên lý"; còn làm thì chưa đúng, chưa đủ.
Đã có nhiều chủ trương như tôn trọng, bảo tồn, khai thác, quảng bá, phát huy
tài nguyên tinh thần của người Việt, nhưng thường mới dừng lại ở mức "chủ
trương", hô hào, mà chưa có được những thực hiện cụ thể, thấu đáo khiến
nhiều giá trị tinh thần không được khai thác, phát huy, thậm chí còn bị lợi
dụng, mai một; hoặc giả có làm thì kết quả thường là méo mó, thảm hại, hậu quả
"lợi bất cập hại", phí tiền của dân, nước.
Điều này tôi thấy khá rõ kể cả nói riêng trong lĩnh vực văn học, xuất bản mà tôi
có điều kiện quan sát gần hơn.
Chúng ta được cha ông để lại một nguồn di sản không thể nói là nhỏ, cần được
bảo tồn, khai thác và thụ hưởng. Thế nhưng cho đến nay, sau mười năm đầu của
thế kỉ XXI, sau 35 năm hòa bình thống nhất đất nước, mà còn rất nhiều những giá
trị (văn chương, tư tưởng, lịch sử) chưa được khảo cứu đến nơi đến chốn, khai thác,
phổ biến rộng rãi.
Xin chỉ điểm mấy thí dụ. Nhà bác học Lê Quý Đôn để lại một di sản đồ sộ tới bốn
chục bộ sách, nhưng đến nay đã có bao nhiêu trong số đó được sưu tập, dịch
thuật, khảo cứu, xuất bản làm tài sản tinh thần chung cho mọi người? Đáng ra,
đã phải có Toàn tập Lê Quý Đôn, Từ điển bách khoa Lê Quý Đôn rồi mới phải.
Cũng tương tự như vậy với nhiều tác gia lớn khác. Ở Hà Tĩnh chúng tôi có Hồng
Sơn văn phái, một hiện tượng đặc trưng độc đáo với những tác giả, tác phẩm xuất
sắc (như Nguyễn Du với Truyện Kiều, Nguyễn Huy Tự với Hoa Tiên truyện, Nguyễn
Huy Hổ với Mai Đình mộng kí, cùng hàng chục nhà thơ, hàng trăm tác phẩm nổi
tiếng). Nhiều học giả đã đề xuất, nhiều bạn đọc tỏ lòng mong muốn có một Tổng
tập Hồng Sơn văn phái (chắc chắn sẽ là tài sản tinh thần rất có giá trị), nhưng
đến nay chỉ mới có một số ít được xuất bản bằng sự cố gắng của vài cá nhân,
dòng họ...
Ngay đối với các tác phẩm của Việt Nam thế kỉ XX, đặc biệt là giai đoạn nửa đầu
thế kỉ, vẫn còn những khoảng trắng trong bản đồ xuất bản hiện nay, nhiều tác
phẩm thực sự có giá trị chưa được đến tay người đọc, người nghiên cứu. Nhiều ấn
phẩm (sách lẫn báo chí) dần dần bị tuyệt bản. Nếu không có kế hoạch bảo tồn,
khai thác, truyền bá, để những di sản đó mai một đi thì sẽ là một tổn thất
không thể bù đắp được.
Tại sao có tình trạng như vậy? Có nhiều nguyên nhân, nhưng đừng nói là vì thiếu
tiền. Chỉ cần qua thông tin về cách chi tiêu, sử dụng tiền của nhà nước ta biết
được từ báo chí, qua các dự án và vụ án... tôi không tin là ta đến nỗi thiếu
tiền để làm những việc đó.
Một điều đáng nói, theo quan sát của tôi, thì nhiều cơ quan, tổ chức nhà
nước có quyền, có điều kiện, có chức năng trong ngành văn hóa lại chưa làm được
tốt, được đủ chức trách của mình ở lĩnh vực này, trong khi đó một số tổ chức
phi chính phủ, tư nhân quý trọng các di sản văn hóa dân tộc đã có những nỗ lực
và đóng góp đáng kể.
Cuộc sống tiện nghi sẽ
phải trả giá bằng sự nghèo đi tài nguyên
- Một học giả Việt Kiều nêu nhận định thế này: chúng ta quá mải mê với các
dự án kinh tế khi mời những nhà đầu tư nước ngoài vào khai thác tài nguyên
khoáng sản, hoặc các kế hoạch hay chính sách thương mại. Có thể về vật chất chúng
ta đang gặt hái được những con số giá trị nào đó nhưng lại làm tài nguyên tinh
thần nghèo đi khi bản sắc có nguy cơ bị đồng hóa, con người lệ thuộc vào tiện
nghi và rời xa truyền thống hay văn hóa cộng đồng. Ông nghĩ sao về điều đó?
Theo tôi, nhận định đó không phải là không có cơ sở. Hình như Việt Nam chưa có
được một nhạc trưởng đủ sức điều hòa chiến lược phát triển toàn diện, hài hòa, và
vì vậy nên xã hội nằm ở tình trạng tự phát, mạnh ai nấy làm, không bền vững.
Bản năng tự nhiên (tự phát) của con người (số đông) là chạy theo tiện nghi, dễ
dãi, ngại khó.
Làm kinh tế, đổi mới trong kinh tế dễ dàng có kết quả, thu lợi bằng tiện nghi
vật chất, nhanh chóng đáp ứng bản năng, nhu cầu tự nhiên của con người. Dù ý
thức được điều đó, người ta cũng không dễ chống lại. Bản thân tôi phản đối sự
lệ thuộc vào tiện nghi, nhưng tôi cũng không thể đứng ngoài vòng quay đó. Tôi
không thể không đi xe máy, không dùng điện thoại, vi tính...
Nhưng có một điều cần ý thức rõ, là sự giàu lên bằng tiện nghi vật chất thường
phải trả giá bằng sự nghèo đi, cạn kiệt nguồn tài nguyên tự nhiên! Nhìn ra xung
quanh, tôi thấy ta đang mang quá nhiều tài nguyên tự nhiên đi đổi lấy những
tiện nghi vật chất hào nhoáng, xa hoa nhiều khi thực chất là rác rưởi, độc hại
cho tinh thần, bản sắc dân tộc, bản sắc người.
Chạy theo sự phát triển về kinh tế (tiện nghi) nếu không được kiểm soát sẽ tạo
ra sự rối loạn, xuống cấp về văn hóa, lối sống, bản sắc dân tộc. Ví dụ nhìn rõ
nhất ở khu vực nông thôn bị đô thị hóa cấp tập. Bản chất nông thôn chạy theo tiện
nghi, lối sống đô thị hóa sẽ phản bội ngay bản sắc của mình, coi thường, vứt bỏ
tài nguyên tinh thần mình đang có để trở thành một dạng lai căng lưu manh hàm
ẩn đủ thứ bi kịch và tệ nạn.
Cho nên phát triển kinh tế bền vững phải hài hòa với xây dựng văn hóa. Nhưng
xây dựng văn hóa khó hơn nhiều. Một trong những điều kiện để xây dựng thành
công văn hóa là phải biết khai thác, phát huy nguồn tài nguyên tinh thần của
dân tộc, của cả nhân loại. Tôi nói lại, là chúng ta đang rất cần một trọng tài,
một nhạc trưởng, để phân xử, để chỉ huy sự phát triển hài hòa giữa kinh tế vật
chất và bản sắc văn hóa tinh thần.
- Ông cũng nói, tài nguyên
thiên nhiên dù giàu có mấy đào mãi rồi sẽ đến lúc cạn kiệt, nhưng tài nguyên tinh
thần càng khai thác càng làm đất nước lớn mạnh thêm?
Đúng vậy, phải biết dè xẻn tài nguyên
(tự nhiên) mình đang có, nghe nói có quốc gia còn mua tài nguyên nước khác về
chôn vào lòng đất để dành. Còn tài nguyên tinh thần càng khai thác thì càng
giàu có thêm, và không phải để dành, mà còn nên hào phóng quảng bá ra thiên hạ
- càng nhiều càng giàu hơn. Lại nữa, tôi tin rằng càng biết khai thác, phát
triển tài nguyên tinh thần thì càng biết gìn giữ, bảo vệ các nguồn tài nguyên
tự nhiên cho phát triển bền vững, hợp lý.
Có một điều cần lưu ý, là nếu tài nguyên thiên nhiên không khai thác thì nó vẫn
còn, giữ nguyên giá trị; ngược lại, tài nguyên tinh thần mà không khai thác,
quảng bá thì không có giá trị, thậm chí có nguy cơ bị mất. Nhưng muốn khai
thác, quảng bá tài nguyên tinh thần thì cần phải có đầu tư. Hiện nay sự đầu tư của
nhà nước ta cho các hoạt động khai thác, phát triển tài nguyên tinh thần vẫn
chưa được quan tâm đúng và đủ. Có thể tìm ngay được những con số so sánh giữa
ta và các nước khác để thấy rõ chuyện này.
Đừng mải mê làm kinh tế
quá
- Vậy Trung tâm Đông Tây của ông đã khai thác tài nguyên tinh thần như thế
nào? Cụm từ "khai thác tài nguyên tinh thần" quá to tát với chúng tôi; tuy
nhiên tôi cũng tự tin mà nói rằng hơn mười năm qua, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ
Đông Tây đã làm được một số việc đáng ghi nhận theo định hướng này.
Trước hết là việc xuất bản, mà nhiều bạn bè của chúng tôi nói rằng Đông Tây là
nơi chuyên làm loại sách... không ai mua! Tất nhiên đó là nói vui. Vẫn có người
mua chứ, nhưng không nhiều. Có những bộ sách biết trước là khó bán, chúng tôi
vẫn cứ làm, mà làm cẩn thận kĩ lưỡng, vì đó là những giá trị tinh thần của dân
tộc. Chẳng hạn như Phan Bội Châu toàn tập, 10 năm trước chúng tôi đã in 10 tập,
kỳ cạch bán lẻ từng bộ, thậm chí từng tập, mà vẫn chưa hết, nay đang chuẩn bị
in tiếp thêm 2 tập Bổ di và một tập Thư mục cho trọn vẹn.
Thuộc loại này còn có thể kể Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Thủy kinh chú
sớ, Thiên Nam ngữ lục, các tuyển tập tác phẩm của Vũ Tông Phan, Nguyễn Tư Giản,
bộ sưu tập Sông Hương - tuần báo, Phan Khôi - tác phẩm đăng báo (nhiều tập),
Hải Dương phong vật chí, Việt sử địa dư, Việt Sử toản yếu, Đồng Khánh, Khải
Định chính yếu, Viêm Giao trưng cổ kí..; bên cạnh đó là những ấn phẩm có vẻ dễ
bán hơn, như An Nam chí lược, Hồi kí Thanh Nghị, Phan Đình Phùng trong dòng
lịch sử, Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Một cõi Trịnh Công Sơn, Bùi Giáng
trong cõi người ta, Đường Thiền sen nở, v.v... đến nay phải đến hàng mấy trăm
đầu sách như vậy, đều là những tài sản tinh thần đáng lưu giữ, quảng bá cho các
thế hệ nối tiếp.
Trung tâm Đông Tây cũng chú ý tổ chức xuất bản các tác giả và tác phẩm theo
chúng tôi là có giá trị nhưng trước đây có thời bị đánh giá chưa thỏa đáng hay
nằm ở "góc khuất" của dư luận, như Phạm Quỳnh, Hoàng Cao Khải, Phan
Khôi, Trương Tửu... Trước hết, chúng tôi xác định phải làm đầy đủ công tác tư
liệu, bảo tồn tài nguyên di sản, rồi từ đó mới có cơ sở để xã hội khai thác, phát
huy các giá trị tinh thần.
Trung tâm Đông Tây còn mở một thư viện khoảng 10.000 đơn vị sách báo, nhiều ấn
phẩm thuộc dạng quý hiếm, mở rộng cửa cho bạn đọc - đó cũng là một cách thiết
thực chuyển tải các giá trị văn hoá quá khứ đến hiện tại, quảng bá tinh hoa văn
hóa nhân loại vào Việt Nam.
Ở đây chúng tôi cũng thường xuyên tổ chức các buổi giới thiệu tác phẩm, các
cuộc giao lưu hay trao đổi bàn tròn, đó chính là một hình thức khai thác, phát
huy, phát triển tài nguyên tinh thần mà qua nhiều năm tiến hành, được nhiều
người đánh giá là rất thiết thực, bổ ích.
Chúng tôi nhận được rất nhiều ủng hộ về mặt tinh thần của bạn bè là các nhà
nghiên cứu, các nhà văn, nhà thơ, dịch giả, các nhà báo và đông đảo bạn đọc yêu
văn chương. Chúng tôi cũng nhận được tài trợ của một số tổ chức văn hóa dưới
dạng dự án xuất bản. Tuy nhiên chúng tôi rất cần, rất mong muốn, có sự ủng hộ
từ phía các cơ quan, tổ chức nhà nước - về mặt tinh thần, pháp lí, và về cả vật
chất. Giá như nhà nước đặt hàng cho chúng tôi thông qua những dự án khai thác
tài nguyên tinh thần cho bạn đọc trong và ngoài nước, hay mua cho chúng tôi
những ấn phẩm tốt mà chúng tôi cố gắng làm ra... Nhưng có vẻ như mấy "ông
nhà nước" này lại đang mải làm kinh tế quá!
- Thế giới biết đến Trung
Quốc với một nền văn hóa lịch sử phong phú không những được khai thác rất triệt
để mà còn tạo ra sức ảnh hưởng lớn đến các nền văn hóa khác; người ta cũng biết
đến những vũ điệu cuồng nhiệt của Mỹ Latin; văn học Nga hay người đẹp của
Venezuela… chúng ta có học hỏi được điều gì từ họ không? Chúng ta đã làm được
những gì?
Bài học chỉ dễ ở lời nói.
Chúng ta đã biết điều đó, đã nói đến điều đó, thậm chí đã chủ trương làm và đã (thử)
làm điều đó. Chúng ta không phải không có tài nguyên tinh thần, cũng không phải
không có người mong muốn và có khả năng khai thác, quảng bá nhưng trước hết, sự
đầu tư quá ít. Hoặc, nói cho công bằng hơn, cũng có đầu tư, nhưng sự đầu tư và
cách sử dụng đầu tư còn nhiều điều phải bàn.
Tôi lấy thí dụ, chỉ trong lĩnh vực xuất bản, văn chương thôi, cái gọi là Giải
sách hay sách đẹp đã được trao năm năm nay, tiêu khá nhiều tiền của nhà nước mà
không gây được chút uy tín xã hội và nghề nghiệp nào. Tiêu chí xét và trao giải
hết sức lộn nhèo: giải sách mà lại không xét sách văn học; không xét sách văn
học mà lại trao cho tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh, Tô Hoài, Đặng Thùy Trâm! Và
thật sự tôi không hiểu làm sao dám “phán” (rằng hay hay không) và “trao giải”
cho các bộ sử của cha ông như Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự
lệ? Cách xét và trao giải lại hết sức tùy tiện. Theo thông tin từ báo chí, có cuốn
sách “nội dung thông tin thì đã lạc hậu ngay từ lúc mới xuất bản” cũng được
trao giải sách hay; lại có cuốn đã được công bố đoạt giải thì đến phút cuối lại
bị rút với lý do “không được các cơ quan chủ quản ủng hộ”! Ta chỉ cần nghe ông
Chủ tịch Hội đồng xét Giải thưởng sách Việt Nam“khẳng định” "Thực ra, giải thưởng sách Việt Nam cũng không hoàn toàn rơi vào
tình trạng ảm đạm" (vnexpress, 8/10/2008) thì đã biết nó như thế nào rồi!
Hoặc như với “Hội nghị Quốc tế quảng bá văn học Việt Nam” vừa diễn ra đầu năm
nay, một sự kiện trong mơ của giới văn chương, được tổ chức cũng xuất phát từ
việc muốn đưa nguồn tài nguyên tinh thần của Việt Nam ra thế giới. Về ý thức
thì điều này rất đúng, nhưng làm chưa ổn - quá nhiều những hoạt động hình thức,
nào tiệc tùng, thăm thú, diễn trò… vô cùng lãng phí. Nói là “rải thảm đỏ” mời
quốc tế đến nhà để “giới thiệu’, “quảng bá” văn chương Việt, nhưng khách đến
rồi, ngồi vào bàn rồi thì té ra một cái bàn không: vì chủ đã chuẩn bị được cái
gì để giới thiệu đâu! Có vẻ như đây là một vụ quảng bá du lịch thì đúng hơn (có
người nói “vui”: phải trao cho Chủ tịch Hội Nhà văn Huân chương Vì sự nghiệp Du
lịch!), chứ chưa đáp ứng mục tiêu “quảng bá văn học” của sự kiện.
Đó chắc chắn chưa phải là cách khai thác, phát triển, quảng bá tài nguyên tinh
thần hợp lý.
Khi cần thiết
người Nga không hề mềm tay: Nga tiêu hủy hàng hóa (chất lượng kém) và
xua đuổi người Trung Quốc (nhập cảnh phi pháp)
Ngày 11 tháng 9 năm 2008
(có tin nói ngày 29 tháng 6 năm 2009) nhà chức trách Moskva đã đóng cửa
thị trường Cherjizuowo (dịch theo phiên âm Trung văn), một chợ container
lớn của thành phố, đồng thời tịch thu 6.000 container hàng hóa Trung
Quốc với tổng trọng lượng gần 100.000 tấn, trị giá 2 tỷ USD (có nguồn
tin nói là 5 tỷ USD).
Bắt đầu từ ngày 21 tháng 1
năm 2010, người Nga đã tiến hành tiêu hủy số hàng hóa Trung Quốc nói
trên gồm: giầy vải, áo lông thú, đồ chơi trẻ em, hàng da với lý do đó
là hàng nhập khẩu lậu, chất lượng rất kém, có hại cho sức khỏe người
tiêu dùng, ô nhiễm môi trường. Công việc này dự kiến đến cuối năm 2010
mới hoàn thành. Chính quyền Moskva tuyên bố quyết không cho phép xuất
hiện những khu phố người Trung Quốc tại thành phố này.
Một nguồn tin nữa cho biết
tại thành phố X, thuộc vùng Siberia Nga
gần đây người ta đã huy động máy xúc, máy ủi san bằng nhiều khu lều
bằng nilon và vải bạt của một số “di dân” phi pháp Trung Quốc.
Nguồn: “Tân Hoa võng” ngày
11/2/2010; “ Hỗ liên võng” ngày 11/2/2010; “Khán Trung Quốc” ngày
11/2/2010