Dù một ai có ít học hành, thì cũng biết vàng là một loại hàng hóa và là thứ hàng hóa như tiền làm thước đo giá trị hàng hóa khác. Do thuộc tính quý của nó, vàng có thể để thành chum, thành cân, thành miếng, thành mẫu nhỏ và chế biến thành trang sức. Bởi vậy, cấm kinh doanh vàng miếng thì người dân có thể mua bán vàng dưới dạng “Chum”, “Cân”, “Thỏi” "Chỉ"…có nghĩa là không “Vàng miếng” để tranh cãi với quy định có tính pháp lý nhưng phi lý đó. Và chức năng thanh toán và cất trử của vàng, không là "Cây" thì sẽ là "Chỉ" (10 chỉ bằng một cây).
Vàng miếng đang nằm trong các tầng lớp dân cư không phải là ít. Nếu bị cấm mua bán tự do, người dân sẽ mua bán chui. Lúc này vàng giả, vàng thiếu cân sẽ xuất hiện. Hơn thế nữa, cơ quan quản lý, cảnh sát, công an lực lượng đâu cho đủ để ngăn chặn chảy máu vàng qua biên giới.Thất thu thuế về vàng là nghiêm trọng.
Chủ trương ngu xuẩn cấm kinh doanh vàng miếng sẽ tạo ra “Đục nước – béo cò” cho một nhóm lợi ích đang mong chờ Ngân hàng nhà nước ban hành là vớ bẩm dồn vào độc quyền, còn nền kinh tế thị trường hàng hóa đang bị ghìm bởi một chủ trương mu mơ về lý luận cũng như thực tiển về kinh tế thị trường.
Vàng cũng như rau cỏ, nó hoàn toàn tuân thủ luật cung cầu và lưu thông hàng hóa. Vào mùa lũ lụt, rau cỏ khan hiếm thì giá bị đẩy lên, ai có cất trữ thì chỉ để được một thời gian ngắn. Đối với vàng, dễ cất trữ với thời gian dài và khi cần, người dân trao đổi thanh toán những hàng hóa có giá trị lớn hoặc bán đi lấy tiền giấy để mua hàng hóa khác. Vàng miếng từ lâu nay đã được người dân Việt Nam cất trữ và làm chức năng thanh toán khi mua bán bất động sản do nhiều nguyên nhân. Gần đây, trên một số công luận, một số chuyên gia ngành Ngân hàng cho rằng tình trạng hàng ngàn tấn vàng đang găm giữ trong dân là do tình hình kinh tế Việt Nam lạm phát cao.Theo tôi, không phải như vậy.
Theo tôi, nguyên nhân đặc thù nhất đối với người dân Việt Nam là do vàng, hay tiền mặt gửi vào Ngân hàng thì dễ, nhưng rút ra thì khó, thậm chí không rút được. Đây là nguyên nhân mà chưa ai , chưa một nhà nghiên cứu kinh tế nào nới tới. Đó là điều luật quy định : Trong trường hợp người rút tiền, vàng gửi tiết kiệm ở Ngân hàng đối với người gửi bị chết thì phải có công chứng là vợ chồng ( Giấy kết hôn), qua UBND xác thực vợ hay chồng bị chết , dán công báo nợ nần tại nơi công cộng trong thời gian quy định, kê khai quan hệ bố mẹ đằng chồng, đằng vợ để phân chia tiền thừa kế.
Tình trạng hiện nay ở Việt Nam, không ít người vợ hay chồng có khoản tiền gửi tiết kiệm là vàng, tiền mặt tại các ngân hàng bị chết vì tai nạn, bị đột tử, bị chết vì bệnh tật…khi đến ngân hàng nhận tiền, vàng thì rất khó khăn, thậm chí bị treo đó làm vốn cho Ngân hàng trong khi gia đình phải vay mượn để lo tang lễ.
Với điều luật quy định hiện nay, thoáng nghe là để bảo vệ cho các đối tượng có quan hệ đối với người gửi tiền, vàng, tại ngân hàng nhưng thật ra lại làm khó dễ vô cùng đối với người thiếu giấy tờ khi ra công chứng. Hơn thế nữa, số tiền, vàng là của vợ chồng tích lũy gửi tiết kiệm, nhưng rủi ro không may xảy ra khi đi rút tiền bị Ngân hàng đòi hỏi đủ giấy tờ xác thực của chính quyền và điều không ai muốn cả là phải phân chia thừa kế cho bố mẹ bên nội, bên ngoại khi chính số tiền đó lại là của họ.
Trước đây, người thân chỉ cầm chứng tử đến UBND xác thực là ra Ngân hàng lĩnh được tiền ngay. Nhưng từ khi có điều luật mới quy định, thì người thân trong gia đình ra rút là hết sức khó khăn, thậm chí không rút tiền, vàng được.
Thực tế đó, trong dân hiện nay, những người có tiền là họ mua vàng miếng, vàng chỉ để cất trữ Khi người người biết “Gửi vào thì dễ, rút ra thì khó” và có rút được thì phải cạy cục chổ này, chổ nọ mất thời gian, bị thiệt thòi, thì người này truyền cho người kia : chớ có dại mà gửi tiền, vàng vào Ngân hàng. Chính vì vậy, hàng ngàn tấn vàng dưới dạng vàng miếng, vàng chỉ, vàng cân đang được các tầng lớp nhân dân cất trử bởi vì người ta không tin vào Ngân hàng. Còn Ngân hàng lại là nạn nhân do các điều luật ngang trái quy định. Đây là nguồn vốn rất lớn đang chết dí trong dân, chưa được khơi thông để quay vòng phát triển kinh tế đất nước.
Hiện nay, dù ngân hàng có huy động với lãi suất cao bao nhiêu, thì họ chẳng dại gì mà gửi vào để lấy lãi. Dù có quy định thu nhập từ tiền gửi Tiết kiệm không bị đánh thuế, thì những người có khoản tiền cất trử bằng vàng, có người tính bằng chum, bằng cân thì họ cũng không dại gì mà gửi ngân hàng.
Khi cấm kinh doanh vàng miếng, những người có tiền bất minh, hay không bất minh, họ sẽ mua bán chui là điều tất yếu. Cơ chế thị trường là thuận mua vừa bán theo quan hệ cung - cầu chứ không ai lại muốn đi sắp hàng mua vàng miếng tại mấy của hàng mà dự định Ngân hàng nhà nước đang quân sư cho Chính phủ ban hành sắp tới chỉ làm cho tình trạng “Đục nước – béo cò” nặng thêm mà thôi.
Không phải đi xa, Ngân hàng nhà nước nên xách cặp sang Thái Lan mà học hỏi kinh nghiệm quản lý tiền tệ hiện nay. Những năm gần đây, người dân Thái Lan có nhiều cuộc biểu tình áo vàng, áo đỏ là vì dân chủ theo luật định, nhưng các cửa hàng vàng tư nhân vẫn bán đầy vàng miếng và vàng trang sức. Khách hàng cần mua vàng bao nhiêu đều được đáp ứng. Người dân Thái Lan hò hét, nhảy múa trên đường phố để biểu tình vì dân chủ, nhưng Ngân hàng Thái Lan vẫn khơi thông ngườn vốn tiền gửi tiết kiệm rất lớn. Bởi vì người dân Thái Lan yên tâm gửi vào Ngân hàng có lợi hơn là tích trữ vàng. Ngân hàng Thái Lan hiện nay là nơi gửi vào rút ra dễ dàng. Học sinh Thái Lan từ mẫu giáo cho cho đến trung học phổ thông đều được nhà nước chu cấp , không phải đóng học phí như ở Việt Nam.
Không loại trừ các quân sư ngành Ngân hàng Việt Nam đang trút mọi khuyết điểm, tội lỗi của họ vào một thứ hàng hóa như mọi hàng hóa khác là “vàng miếng”, nhằm che lấp sự yếu kém trong quá trình quản lý tiền tệ là nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát hai con số hiện nay.
Thừa vốn trong dân, nhưng lại thiếu vốn trong ngân hàng dẫn đến thiếu vốn trong các doanh nghiệp, ngành ngân hàng phải luôn quán triệt , bất luận trong mọi trường hợp phải coi nguồn vốn huy động trong các tầng lớp dân cư là hàng đầu.
Bởi vậy, các ngân hàng thương mại phải luôn thực hiện nguyên tắc : gửi vào dễ dàng, thì rút ra dễ dàng.
Còn quyền lợi liên quan dân sự như người đó có vay mượn ai, hôn nhân hay không hôn nhân, thừa kế hay không thừa kế đến người gửi, bên ngoài ngân hàng do chính quyền và các đương sự giải quyết bằng hòa giải hay pháp lý.
Ngân hàng chỉ có quyền phong tỏa tài khoản và tiết lộ số dư tài khoản theo yêu cầu có văn bản của Tòa án. Bằng không, chỉ cần chính quyền sở tại xác thực thân nhân có ủy quyền, chứng tử là ra Ngân hàng được rút tiền không bị một sự nhiểu sách khác.
Làm tốt điều đó, là đòn bẩy để Việt Nam khơi thông hàng ngàn tấn vàng đang bị găm giữ ở các tầng lớp dân cư trở thành nguồn vốn vô cùng dồi dào chảy vào ngân hàng góp phần tích cực phát triển kinh tế và chống lạm phát.
8/3/2011
Nguyễn Quốc Minh